Thứ Năm, 15 tháng 6, 2017

Truy tìm nguồn gốc của 3 phát minh để đời dành cho mùa hè

Điều hòa nhiệt độ

Được coi là một trong những phát minh vĩ đại nhất của loài người giúp cho mùa hè giảm bớt sự khó chịu vì thời tiết nóng nực và oi bức.

Năm 1902, kỹ sư người Mỹ Willis Haviland Carrier đã cho ra mắt một thiết bị làm mát "đặc biệt". Đây là đơn đặt hàng của một ông chủ xưởng in ở Brooklyn, nơi rất cần một hệ thống kiểm soát độ ẩm và nhiệt độ.

Ý tưởng về hệ thống điều hòa xuất hiện trong đầu Willis khi ông đang trên một chuyến tàu đêm. Ngay khi nhìn thấy hơi ẩm đọng lại ngoài cửa sổ, suy nghĩ áp dụng hơi nước để làm giảm nhiệt độ xuất hiện trong đầu vị kỹ sư trẻ.

Hệ thống điều hòa đầu tiên được Willis hoàn thành gồm 2 ống dẫn chính, 1 ống để làm lạnh không khí và 1 ống để cung cấp không khí chứa hơi ẩm. Nhờ đó, hệ thống có thể kiểm soát được độ ẩm ở mức 55% bên trong khối không khí đã được làm lạnh.

Thời điểm đó, kích thước của một hệ thống làm mát như vậy sẽ rất đồ sộ nên chỉ được sử dụng ở một số rạp chiếu phim, nhà hát lớn.

Cho đến thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II, thiết bị này mới được cải tiến nhỏ gọn với giá cả phải chăng hơn để sử dụng trong các hộ gia đình hay các cửa hàng bách hóa nhỏ.

Kính râm

Kính râm là một phát kiến ra đời từ thế kỷ thứ 13 tại Trung Quốc. Theo kể lại, các thẩm phán khi xét xử đã phải sử dụng các tròng kính màu đen để che giấu cảm xúc thật nhằm đảm bảo phiên tòa diễn ra một cách công bằng nhất.

Từ đó, ý tưởng đó dần được hình thành và lan rộng đến các nước phương Tây. Nước Ý là một trong những quốc gia đầu tiên đầu tư sản xuất vào sản phẩm này vừa để tăng cường tính thời trang, vừa là để giảm độ nhạy cảm của mắt với ánh sáng.

Nhiều năm sau đó, người ta đã cải thiện kiểu dáng của chiếc kính râm và tạo nên gọng kính bằng những chất liệu như xương động vật hay kim loại.

Đến đầu thế kỷ 20, kính mát hiện đại ra đời với nghiên cứu của nhà khoa học William Crookes như là một phương án trong giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng của mắt người dân khi tiếp xúc nhiều với ánh đèn điện và ánh sáng mặt trời.

Kem chống nắng

Được xếp vào một loại mỹ phẩm không thể thiếu dành cho phái yếu, nhưng sản phẩm này có câu chuyện hình thành khá phức tạp. Từ năm 1930, 4 nhà khoa học đã cùng nhau nghiên cứu một loại kem có tác dụng chống nắng để phục vụ như một hình thức cải thiện làn da.

Sản phẩm đầu tiên được chính thức ra mắt năm 1936, nhờ Eugene Schuelles - cha đẻ của nhãn hàng L’Oreal danh tiếng. Đó là một hỗn hợp gồm dầu và kem chống nắng mang tên Ambré Solaire. Nhưng sản phẩm này không thể đáp ứng được mong đợi của người dùng.

Mãi đến năm 1938, sản phẩm của nhà hóa học trẻ Franz Greiter (Úc) mới được thế giới gọi là kem chống nắng. Sản phẩm của Franz bắt đầu có khả năng hấp thụ các bức xạ tia cực tím và chuyển hóa chúng, giúp làn da hạn chế tổn thương.

Sau đó, năm 1946, sản phẩm kem chống nắng mang tên Glacier Cream được tung ra thị trường với nhân tố bảo vệ khỏi ánh nắng mặt trời (SPF) lần đầu được xuất hiện.

SPF (Sun Protection Factor) chính là chỉ số biểu thị mức độ chống nắng tối đa của sản phẩm khi sử dụng. Khi sản phẩm có chỉ số SPF càng cao khả năng chống nắng càng hiệu quả.

Đừng tưởng mở 1 quán cà phê thành công thì cũng dễ dàng mở thêm được nhiều quán, sai lầm lớn nhất của người trẻ nằm ở tư duy này

Theo Trí Thức Trẻ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét